Xâm lược Sự_kiện_Vịnh_Con_Lợn

Ngày xâm lược (17 tháng 4)

Trong suốt đêm ngày 16, sáng ngày 17 tháng 4, một cuộc đổ bộ nghi binh được các đặc vụ CIA sắp xếp gần Bahia Honda, tỉnh Pinar del Rio. Một đội nhỏ gồm các thuyền nhẹ kéo theo những chiếc bè trên có đặt các thiết bị phát ra âm thanh và các hiệu ứng khác để tạo cảm giác có một cuộc đổ bộ xâm lược bằng tàu. Nguồn tin từ Cuba sau này báo cáo rằng vì cuộc nghi binh này mà Fidel Castro đã rời khỏi mặt trận Vịnh Con Lợn trong một thời gian ngắn.[5][25]

Vào khoảng 00.00 ngày 17 tháng 4 năm 1961, hai nhóm bộ binh đổ bộ Blagar và Barbara J, mỗi đội có một "sĩ quan điều hành" của CIA cùng một Đội Phá hoại dưới mặt nước với 5 người nhái, xâm nhập Vịnh Con Lợn (Bahía de Cochinos) ở bờ biển phía nam Cuba. Theo sau các nhóm này là một lực lượng gồm bốn tàu vận tải (Houston, Río Escondido, Caribe, và Atlántico) chở khoảng 1.300 bộ binh người Cuba lưu vong của Lữ đoàn 2506, cùng với xe tăng và các loại xe bọc thép khác trên tàu đổ bộ. Vào khoảng 01.00, chiếc Blagar, với vai trò là tàu chỉ huy chiến trường, hướng về địa điểm đổ bộ chính tại Playa Girón (Bãi xanh biển), đi đầu là nhóm người nhái lái xuồng cao su, sau đó là nhóm quân trên Caribe đi trong những chiếc xuồng nhôm nhỏ, rồi đến các tàu LCVP và LCU. Nhóm Barbara J, dẫn đầu chiếc Houston, cũng đổ quân cách đó 35 km về phía đông tây tại Playa Larga (Bãi đỏ), dùng xuồng sợi thủy tinh nhỏ. Việc thả quân vào đêm bị trì hoãn, do hỏng máy và một số chiếc xuồng bị hỏng do va phải đá ngầm. Một vài dân quân trong khu vực đã cảnh báo nhanh chóng cho quân đội Cuba ngay sau khi có cuộc đổ bộ đầu tiên, trước khi đội quân xâm lược tiêu diệt sự kháng cự của họ.[25]

Vào rạng sáng lúc khoảng 06.30, các máy bay Sea Fury, B-26 và T-33 của Không quân Cuba bắt đầu tấn công tàu của Đội quân viễn chinh Cuba lúc đó vẫn tải thả quân. Vào khoảng 06.50, cách 8 km về phía nam Playa Larga, Houston cũng bị hư hỏng do bị tên lửa từ một chiếc Sea Fury và T-33, đến khoảng hai giờ đồng hồ sau thuyền trưởng Luis Morse ra lệnh kéo thuyền lên phía tây vịnh. Khoảng 270 đã được thả xuống, nhưng khoảng 180 trong số đó bị chết chìm hoặc bị bắn chết trên bờ, khiến họ không thể tiến hành công việc nào khác. Vào khoảng 07.00, hai chiếc B-26 của Giải phóng quân tấn công và đánh chìm tàu Hộ tống Tuần dương Hải quân Cuba El Baire tại Nueva Gerona trên Đảo Thông.[28] Hai chiếc này tiếp tục bay tới Giron để nhập vào hai chiếc B-26 khác cùng tấn công lực lượng bộ binh Cuba và yểm trợ trên không cho các máy bay thả dù C-46 và các tàu của Lực lượng Viễn chinh Cuba đang bị không kích. Vào khoảng 07.30, năm máy bay vận tải C-46 và một C-54 thả 177 lính dù trong tiểu đoàn dù Lữ đoàn 2506 trong điệp vụ có bí danh Chiến dịch Falcon.[33] Khoảng 30 quân cùng với các thiết bị nặng đã được thả xuống phía nam nhà máy đường của Úc trên đường đến Palpite và Playa Larga, nhưng thiết bị thất lạc trong đầm lầy và đội quân này không thể khóa được con đường. Số quân khác được thả xuống San Blas, Jocuma giữa Covadonga và San Blas, và tại Horquitas giữa Yaguaramas và San Blas. Các vị trí này có nhiệm vụ phong tỏa con đường duy trì được hai ngày, cho đến khi được tiếp viện từ bộ binh từ Playa Girón đến.[14]

Vào khoảng 08.30, một chiếc Sea Fury của Quân cách mạng do phi công Carlos Ulloa Arauz lái đâm vào vịnh, do bị mất lái hoặc trúng đạn phòng không, sau khi đụng độ với một chiếc C-46 của Giải phóng quân đang trở về phía nam sau khi thả lính dù. Đến 09.00, quân đội và dân quân Cuba từ bên ngoài khu vực bắt đầu tiến đến nhà máy đường của Úc, Covadonga và Yaguaramas. Suốt hôm đó, họ liên tục được tăng viện quân, xe thiết giáp và tăng thường được chở tới bằng xe tải.[14] Vào khoảng 09.30, nhiều chiếc Sea Fury và T-33 của Quân cách mạng tấn công bằng tên lửa vào tàu Rio Escondido, khiến nó bị nổ tung và chìm cách Girón 3 km.[15]

Vào khoảng 11.00, một chiếc T-33 của Quân cách mạng tấn công chiếc B-26 (mã số 935) của Quân giải phóng do Matias Farias lái, nhưng may mắn sống sót khi máy bay rơi tại sân bay Girón, hoa tiêu Eduardo Gonzales đã chết vì bị bắn. Chiếc B-26 đi chung bị thiệt hại và phải chuyển hướng đến Đảo Cayman Lớn; Phi công Mario Zúñiga ("kẻ đào ngũ") và hoa tiêu Oscar Vega quay lại Puerto Cabezas trên chiếc C-54 của CIA vào ngày 18 tháng 4. Đến khoảng 11.00, hai chiếc tàu vận tải còn lại Caribe và Atlántico, và những chiếc LCI và LCU của CIA, bắt đầu rút lui về phía nam để đến vùng hải phận quốc tế, nhưng vẫn bị máy bay của Quân cách mạng đuổi theo. Đến khoảng 12.00, chiếc B-26 của Quân cách mạng bị hỏa lực phòng không của Blagar bắn nổ tung, và phi công Luis Silva Tablada (chỉ mới là lần bay thứ hai) cùng phi hành đoàn ba người đều tử nạn.[17] Đến 12.00, hàng trăm dân quân là học viên các trường quân sự tại Matanzas đã chiếm được Palpite, và thận trọng đi bộ tiến về Playa Larga ở phía nam, chịu nhiều tổn thất trong những trận tấn công của những chiếc FAL B-26. Vào lúc chạng vạng, các lực lượng mặt đất khác của Cuba dần tiến về phía nam từ Covadonga và phí tây từ Yaguaramas tới San Blas, và phí tây dọc theo các con đường ven biển từ Cienfuegos tới Girón, toàn bộ lực lượng đều không có vũ khí nặng hay phương tiện thiết giáp. Trong ngày, ba chiếc FAL B-26 đã bị những chiếc T-33 bắn hạ, với các phi công Raúl Vianello, José Crespo, Osvaldo Piedra và các hoa tiêu Lorenzo Pérez-Lorenzo và José Fernández thiệt mạng. Hoa tiêu của Vianello là Demetrio Pérez đã thoát được ra ngoài và được chiếc USS Murray vớt lên. Phi công Crispín García Fernández và hoa tiêu Juan González Romero, trong chiếc B-26 số hiệu 940, đã chuyển hướng tới Boca Chica, nhưng buổi tối muộn hôm đó họ đã tìm cách bay trở lại Puerto Cabezas trong chiếc B-26 số hiệu 933 mà Crespo đã bay tới Boca Chica ngày 15 tháng 4. Trong tháng 10 năm 1961, những mảnh xác của chiếc B-26 và hai phi công của nó cuối cùng được tìm thấy trong rừng rậm ở Nicaragua.[28][34] Một chiếc FAL B-26 đã chuyển hướng tới Grand Cayman với động cơ hỏng. Tới 16.00, Fidel Castro đã tới trung tâm nhà máy đường Australia, gia nhập với José Ramón Fernández người đã được ông chỉ định làm chỉ huy chiến trước trước buổi sáng ngày hôm đó.[14]

Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Osvaldo Ramírez (khi ấy là lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa nông thôn chống Castro) bị bắt tại Aromas de Velázquez và bị hành quyết ngay lập tức.[35] CIA không biết hay không quan tâm tới những hiệu ứng mang tính biểu hiện này trong chiến dịch đã được lên kế hoạch sẵn.[18]

Vào khoảng lúc 21.00 ngày 17 tháng 4 năm 1961, một cuộc tấn công ban đêm của ba chiếc FAL B-26 vào sân bay San Antonio de Los Baños thất bại, được cho là do khả năng kém và điều kiện thời tiết. Hai chiếc B-26 khác đã từ bỏ nhiệm vụ sau khi cất cánh.[17][31] Các nguồn tin khác cho rằng đạn phòng không dày đặc đã khiến các phi đội sợ hãi, khói từ các súng phòng không này có lẽ đã được lấy làm một lời giải thích tốt về "tầm nhìn kém".[14]

Ngày xâm lược cộng 1 (D+1) 18 tháng 4

Tới khoảng 10.30 ngày 18 tháng 4, quân đội và du kích Cuba, được sự hỗ trợ của xe tăng, đã chiếm Playa Larga sau khi các lực lượng Lữ đoàn đã bỏ chạy về phía Girón trong những giờ trước đó. Trong ngày, các lực lượng Lữ đoàn rút về San Blas dọc theo hai con đường từ Covadonga và Yaguaramas. Tới khi ấy, cả Fidel Castro và José Ramón Fernández đều đã chuyển tới khu vực mặt trận đó.[14]

Khoảng 17.00 ngày 18 tháng 4, những chiếc FAL B-26 tấn công một đoàn 12 xe buýt dân sự Cuba chạy trước những chiếc xe tải chở xe tăng và xe thiết giáp khác, đi về phía nam giữa Playa Larga và Punta Perdiz. Những chiếc xe, chở đầy thường dân, quân du kích, cảnh sát và binh sĩ, bị tấn công bằng bom, napalm và tên lửa, chịu lượng thương vong lớn. Sáu chiếc B-26 do hai phi công hợp đồng của CIA và bốn phi công khác cùng sáu hoa tiêu từ Lữ đoàn không quân 2506 điều khiển.[25][28] Đoàn xe sau đó lại tập hợp lại và tiến về Punta Perdiz, khoảng 11 km tây bắc Giron.[14]

Ngày xâm lược cộng 2 (D+2) 19 tháng 4

Trong đêm ngày 18 tháng 4, một chiếc FAL C-46 chở vũ khí và trang bị tới sân bay Girón đã được các lực lượng mặt đất của Lữ đoàn 2506 chiếm, và cất cánh trước rạng đông ngày 19 tháng 4.[36] Chiếc C-46 cũng di tản Matias Farias, phi công của chiếc B-26 serie '935' (mã hiệu Chico Two) đã bị bắn và phải hạ cánh khẩn cấp xuống Girónngày 17 tháng 4.[33]

Phi vụ tấn công đường không cuối cùng (mã hiệu Mad Dog Flight) gồm năm chiếc B-26, bốn chiếc trong số đó do các phi phi đội hợp đồng người Mỹ của CIA và các phi công thuộc Alabama Air Guard điều khiển. Một chiếc FAR Sea Fury (do Douglas Rudd lái) và hai chiếc FAR T-33 (do Rafael del Pino và Alvaro Prendes lái) bắn hạ hai trong số những chiếc B-26 đó, làm thiệt mạng bốn phi công Mỹ.[18]

Những cuộc tuần tra chiến đấu trên không do những chiếc phản lực Douglas A4D-2N Skyhawk thuộc phi đội VA-34 hoạt động từ USS Essex thực hiện, với các dấu hiệu quốc tịch cùng các dấu hiệu khác đã bị xoá bỏ. Những chuyến xuất kích chỉ để đảm bảo tinh thần cho các binh sĩ Lữ đoàn và các phi công, và để đe doạ các lực lượng của chính phủ Cuba mà không tham gia trực tiếp vào các hoạt động chiến tranh.[28]

Không có sự hỗ trợ không quân trực tiếp, và thiếu đạn dược, các lực lượng mặt đất của Lữ đoàn 2506 đã lùi về các bãi biển trước sự tấn công mạnh mẽ của pháo binh, xe tăng và bộ binh chính phủ Cuba.[15][37][38][39]

Cuối ngày 19 tháng 4, tàu khu trục USS Eaton (mã hiệu Santiago) và USS Murray (mã hiệu Tampico) đã dời tới Vịnh Con Lợn để di tản các binh sĩ Lữ đoàn đang rút lui khỏi các bãi biển, trước khi những loạt đạn từ xe tăng của Cuba buộc Commodore Crutchfield phải ra lệnh rút lui.[25]

Ngày xâm lược cộng 3 (D+3) 20 tháng 4

Từ ngày 19 tháng 4 đến khoảng 22 tháng 4, các chuyến xuất kích được thực hiện bởi những chiếc A4D-2N để có thông tin trinh sát bằng mắt thường về các khu vực chiến sự. Các chuyến bay trinh sát cũng thông báo về những phi đội Douglas AD-5W của VFP-62 và/hay VAW-12 từ USS Essex hay các tàu sân bay khác, như USS Shangri-La rằng đó là một phần của lực lượng đặc nhiệm đã được thiết lập ngoài khơi Đảo Cayman.[25][28]

Ngày 21 tháng 4, Eaton và Murray, được tăng cường thêm những chiếc khu trục USS Conway và USS Cony, cộng với USS Threadfin (tàu ngầm) và một thuỷ phi cơ PBY-5A Catalina của CIA vào ngày 22 tháng 4, tiếp tục tìm kiếm dọc bờ biển, rặng đá ngần và các hòn đảo để cứu những người còn sống sót thuộc Lữ đoàn, khoảng 24-30 người đã được cứu.[36]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sự_kiện_Vịnh_Con_Lợn http://www.firmaspress.com/viaje-al-corazon-de-cub... http://abclocal.go.com/kgo/story?section=assignmen... http://www.haciendapub.com/cuba.html http://www.hikokiwarplanes.com/downloads/laaws-dow... http://www.laahs.com/artman/publish/article_38.sht... http://www.laahs.com/artman/publish/article_50.sht... http://www.life.com/image/first/in-gallery/25102/b... http://www.nuevoaccion.com/ http://theatlantic.com/doc/200406/holland http://www.gwu.edu/~nsarchiv/bayofpigs/chron.html